Chính quyền Đế_quốc_Sasan

Nhà Sassanid đã thiết lập một đế chế nằm trong phạm vi biên giới trước đây mà nhà Arsacid của người Parthia đã đạt được, với kinh đô Ctesiphon ở tỉnh Khvarvaran. Trong việc cai trị đế chế này, các vị vua Sassanid sử dụng tước hiệu Vua của các vua (Shāhanshāh), trở thành vị chúa tể trung ương và cũng đảm nhận việc giám hộ ngọn lửa thiêng liêng, biểu tượng của quốc giáo. Các hoàng hậu của nhà Sassanid đã sử dụng tước hiệu Hoàng hậu của các Hoàng hậu (Banebshenan banebshen).

Trên một quy mô nhỏ hơn, các vùng lãnh thổ cũng có thể được cai trị bởi một số tiểu vương thuộc dòng dõi của nhà vua, được gọi là Shahrdar, và dưới sự giám sát trực tiếp bởi vị Vua của các vua. Sự cai trị của nhà Sassanid đã được đặc trưng bởi sự tập quyền trung ương đáng kể, những dự án quy hoạch đô thị đầy tham vọng, sự phát triển nông nghiệp, và cải tiến kĩ thuật[51] Bên dưới nhà vua, một bộ máy quan liêu đầy quyền lực thực hiện nhiều công việc của chính phủ, người đứng đầu của bộ máy quan liêu và Vice-Chancellor, là "Vuzorg (Bozorg) Farmadar". Bên trong bộ máy quan liêu này, các tu sĩ Hỏa Giáo là những người nắm rất nhiều quyền lực. Người đứng đầu của tầng lớp giáo sĩ Magi, Mobadan, cùng với tổng tư lệnh quân đội, (Eran) Spahbod, người đứng đầu của nghiệp đoàn thương nhân và các thương gia "Ho Tokhshan Bod", quan "Vastrioshansalar" (tương đương với chức Bộ trưởng Nông nghiệp ngày nay), là những người bên dưới nhà vua và nắm nhiều quyền lực nhất trong nhà nước Sassanid..[60]

Các vua nhà Sassanid luôn biết nghe những ý kiến của triều thần. Nhà sử học Hồi giáo Masudi đã ca ngợi bộ máy chính quyền nhà Sassanid như sau:

"chính quyền xuất sắc của các vua Sassanid, chính sách được thực thi tốt của họ, sự chăm lo của họ dành cho thần dân, và sự thịnh vượng của các lãnh thổ của họ."

Trong thời bình, vương quyền của nhà vua là cha truyền con nối, nhưng có thể được nhà vua trao lại cho một người con trai trẻ hơn, đã có hai trường hợp quyền lực tối cao được nắm giữ bởi nữ hoàng. Khi không có người thừa kế trực tiếp đã có sẵn, quý tộc và các giám mục sẽ lựa chọn một vị vua, nhưng sự lựa chọn của họ bị hạn chế trong các thành viên của Hoàng gia.[61]

Giới quý tộc Sassanid là một hỗn hợp của các gia tộc Parthia cũ, các gia đình quý tộc Ba Tư, và các gia đình quý tộc từ các vùng lãnh thổ bị chinh phục. Nhiều gia đình quý tộc mới đã trỗi dậy sau sự sụp đổ của triều đại Parthia, trong khi một số trong số Bảy gia tộc Parthia thống trị vẫn có tầm quan trọng cao. Tại triều đình của Ardashir I, các gia tộc Arsacid cũ như Nhà Karennhà Suren, cùng với một số gia tộc Ba Tư như, nhà Varazes và Andigan, đã nắm giữ những chức vụ cao quý. Cùng với những gia đình quý tộc người Iran và không phải người Iran, các vị vua của Merv, Abarshahr,Carmania, Sakastan, Iberia, và Adiabene, cũng được nhắc đến với việc nắm giữ những vị trí danh dự trong số các quý tộc, xuất hiện tại triều đình của Shahanshah. Quả thực, những lãnh địa rộng lớn của nhà Suren, Karen, và Varaze, mà đã hợp thành một phần của nhà nước Sassanid ban đầu là các tiểu quốc bán độc lập.

Nhìn chung, thành viên các gia đình quyền quý Ba Tư (Bozorgan) thường nắm giữ những địa vị quyền lực nhất trong nền hành chính đế quốc, chẳng hạn như chức Tổng trấn các tỉnh miền biên ải (Marzban مرزبان). Phần lớn các chức vị này mang tính thừa hưởng, và nhiều chức vị trong số đó đã được truyền qua hàng loạt thế hệ trong gia đình. Các Marzban cao tuổi nhất được ban tặng cho một cái ghế bạch, trong khi các Marzban ở phần lớn cái tỉnh có ý nghĩa chiến lược ở biên cương, tỷ dụ như tỉnh Kavkaz, thì được ban cho ghế vàng.[62] Khi có binh đạo, các Marzban địa phương có thể được xem là Nguyên soái, trong khi các spahbod (hiểu là Chỉ huy trưởng) dưới cấp có thể chỉ huy một đạo quân.[63]

Ngoài ra, triều đình Sassanid cũng tổ chức hệ một thống cấp bậc văn hóa - xã hội. Cơ cấu này được hỗ trợ bởi Hỏa giáo, được công nhận làm quốc giáo Ba Tư. các tôn giáo khác chủ yếu là được khoan dung (cho dù chính sách là vấn đề tranh cãi nóng bỏng; có thể xem một ví dụ trong sách Ancient Persia của Wiesehöfer hay sách Cambridge History of Iran, Tập 3). Các vua nhà Sassanid chủ trương hồi phục các truyền thống Ba Tư và loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp.[51]

Quân đội

Mũ của binh lính Sassanid

Quân đội chính quy của đế chế Sassanid đã được hình thành dưới triều đại Ardeshir I, vị Vua của các vua đầu tiên của đế quốc. Ardeshir đã tập trung vào sự hồi sinh chiến thuật quân sự và hệ thống tổ chức trước đây đã được sử dụng dưới thời Đế chế Achaemenid, cũng như các hiệp sĩ Parthia. Ông thậm chí còn tập trung vào phát triển những vũ khí công thành mới.

Bộ binh

Lực lượng Paighan đã hình thành nên phần lớn bộ binh Sassanid, và thường được tuyển mộ từ những người nông dân. Mỗi đơn vị nằm dưới sự chỉ quy của một viên quan được gọi là một "Paighan Salar",và nhiệm vụ chính của họ là để bảo vệ những đoàn quân nhu, phụng sự như là đầy tớ của Sarvan (một chức vụ cao hơn), tấn công ồ ạt vào các thành lũy, và khai mỏ.[64]

Người Medes cung cấp cho quân đội Sassanid với những lính phóng lao ưu tú, phóng thạch thủ và bộ binh nặng. Bộ binh Iran được mô tả bởi Ammianus Marcellinus "trang bị như võ sĩ giác đấu" và "tuân theo mệnh lệnh giống hệt như những chú bé bồi ngựa"[65] người Dailamite cũng phụng sự trong bộ binh và là những cư dân người Iran sống chủ yếu ở Gilan, Iran Azerbaijan và Mazandaran. Họ được ghi chép lại là đã chiến đấu với các loại vũ khí như dao găm, kiếm và các ngọn lao. Một ghi chép về người Dalamite là sự tham gia của họ trong cuộc xâm lược Yemen, nơi 800 người trong số họ được chỉ huy bởi viên quan Sarvan Vahriz.[64] Vahriz cuối cùng sẽ đánh bại quân Ả Rập tại Yemen và tại kinh đô Sana'a của nó biến nó trở thành một chư hầu của Ba Tư cho đến tận những cuộc xâm lược của Ba Tư của người Ả Rập.[66]

Kị binh

Một vị vua được thể hiện như là một kỵ binh giáp nặng, Taq-e Bostan, Iran

Lực lượng kỵ binh được sử dụng trong suốt thời đế chế Sassanid gồm có hai loại kỵ binh nặng: ClibanariiCataphract. Lực lượng kỵ binh này bao gồm các nhà quý tộc ưu tú được đào tạo từ khi là những thanh niên trẻ tuổi, và nó được hỗ trợ bởi kị binh nhẹ, bộ binh và cung thủ. Chiến thuật của nhà Sassanid là tập trung vào phá vỡ hàng ngũ kẻ thù với các cung thủ, và cũng sử dụng đến những con voi chiến vốn là một đặc trưng của nhà Sassanid, triển khai voi để nhằm hỗ trợ kỵ binh.[67]

Không giống như người Parthia, nhà Sassanid đã phát triển những vũ khí công thành tiên tiến. Sự phát triển của các vũ khí công thành đã tỏ ra là một điều hữu ích trong các cuộc xung đột với Rome, ngược lại, nhà Sassanid cũng phát triển một số kỹ thuật để bảo vệ thành phố của mình khỏi bị tấn công. Quân đội Sassanid nổi tiếng nhờ những kỵ binh nặng của nó, giống như quân đội của người Parthia quân đội, mặc dù chỉ có một số kỵ binh nặng của nhà Sassanid được trang bị với những ngọn giáo. Sử gia La Mã Ammianus Marcellinus đã mô tả lực lượng kỵ binh clibanarii của Shapur II khá cụ thể,cho thấy nó được trang bị nhiều, và chỉ có một phần được trang bị giáo:

Mọi Đại đội đều mặc giáp sắt, và khắp cơ thể họ được bao bọc với kim loai nặng mà nó vừa vặn tới mức các khớp cứng vừa khít với tay chân của họ, và các dạng mặt người của con người đã được khéo léo trang bị để vừa vặn với đầu của họ, và rằng kể từ khi toàn bộ cơ thể của họ được phủ bằng kim loại, những mũi tên đã bị rơi xuống ngay khi chúng bắn vào đó.

Hoàng đế Đông La Mã Maurikios cũng nhấn mạnh trong tác phẩm Strategikon của mình rằng nhiều kị binh nặng của nhà Sassanid kỵ binh đã không mang những ngọn giáo, mà họ chỉ dựa vào những cây cung như là vũ khí chính của họ. Tuy nhiên trên các bức phù điêu Taq-i Bustan và Al-Tabari nổi tiếng đã liệt ra danh sách những trang bị thiết yếu cho các hiệp sĩ dihqan trong đó bao gồm các ngọn giáo, cho thấy một sự tương phản. Điều chắc chắn là trang bị của các kỵ sĩ này là khá phong phú.

Các cuộc chiến tranh

Một đồ trang sức bằng đá có cảnh hoàng đế Shapur I đánh tay đôi với hoàng đế Valerianus và bắt được ông ta năm 256

Nhà Sassanid, cũng giống như người Parthia, thường xuyên có chiến sự với Đế chế La Mã. Tiếp theo sự phân chia đế chế La Mã năm 395, đế quốc Đông La Mã, định đô tại Constantinopolis, đã thay thế Đế chế La Mã như là kẻ thù của chính ở phía Tây của Ba Tư. Sự thù địch giữa hai đế quốc đã trở nên thường xuyên hơn [51] Nhà Sassanid, cũng giống như Đế chế La Mã, là một quốc gia liên tục có xung đột với các vương quốc láng giềng và những dân tộc du mục. Mặc dù mối đe dọa từ những cuộc tấn công bất ngờ của người du mục chưa bao giờ có thể được giải quyết ổn thỏa, nhà Sassanid lại tỏ ra thành công hơn nhiều khi đối phó với những vấn đề này so với những người La Mã.

Ở phía tây, lãnh thổ của nhà Sassanid tiếp giáp với nhà nước La Mã rộng lớn và ổn định, nhưng ở phía đông, những người hàng xóm gần nhất của nó là Đế quốc Quý Sương và các bộ lạc du mục như người Hun trắng. Việc xây dựng công sự như pháo đài Tus, hoặc như thành phố Nishapur, mà sau này đã trở thành một trung tâm học thuật và thương mại, cũng như hỗ trợ trong việc bảo vệ các tỉnh phía đông khỏi những cuộc tấn công.

Ở phía nam và trung tâm Arabia, các bộ lạc Bedouin Ả Rập đôi khi đột kích vào đế chế Sassanid. Vương quốc Al-Hirah, một vương quốc chư hầu của nhà Sassanid, được thành lập để tạo thành một vùng đệm giữa khu trung tâm của đế quốc và các bộ lạc Bedouin. Việc xóa sổ vương quốc Al-Hirah bởi Pervaiz (vua) Khosrau II vào năm 602, đã góp phần nhiều vào những thất bại quyết định của nhà Sassanid khi chống lại người Ả Rập Bedouin trong thế kỷ sau này. Những thất bại này đã dẫn đến việc toàn bộ đế chế Sassanid bị xâm chiếm một cách nhanh chóng bởi các bộ lạc Bedouin dưới ngọn cờ Hồi giáo.

Ở phía Bắc, dân Khazar và những cư dân du mục gốc Thổ thường xuyên tấn công các tỉnh phía Bắc của đế quốc. Họ đã cướp đoạt vùng đất Medes vào năm 634. Nhưng ngay sau đó, quân đội Ba Tư đã đánh bại và đánh đuổi họ khỏi vùng đất này. Nhà Sassanid cũng đã xây dựng nhiều công sự ở khu vực Caucasus để ngăn cản những cuộc tấn công này.

Bành trướng tới Ấn Độ

Bài chi tiết: Nhà Ấn-Sassanid
Đồng tiền của vị kushansha của nhà Ấn-Sassanid Varhran I (đầu thế kỷ 4)
Trái: Vua Varhran I
Phải: Thần Shiva và bò

Sau khi chinh phục Iran và các vùng lân cận, Shapur I đã mở rộng quyền lực của mình về phía đông vào phía tây bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Người Quý Sương trước đó tự trị đã buộc phải chấp nhận quyền bá chủ của ông. Mặc dù đế chế Quý Sương đã suy yếu vào cuối thế kỷ thứ 3, và sau đó được thay thế bởi đế chế Gupta ở Ấn Độ trong thế kỷ thứ 4, rõ ràng rằng nhà Sassanid vẫn còn lưu lại ở tây bắc Ấn Độ trong suốt giai đoạn này.

Ba Tư và vùng tây bắc Ấn Độ đã có sự giao thoa về văn hóa cũng như quan hệ chính trị trong thời gian này, như một số truyền thống Sassanid đã truyền vào các vùng lãnh thổ Quý Sương. Đặc biệt, người Quý Sương đã bị ảnh hưởng bởi quan niệm vương quyền của nhà Sassanid, mà được lan truyền thông qua thương mại đồ tạo tác bằng bạc của nhà Sassanid và những tấm vải dệt miêu tả cảnh hoàng đế săn bắn hoặc thực thi công lý

Sự Giao lưu văn hóa ở mức độ thấp hơn cũng đã diễn ra giữa Ấn Độ và Ba Tư trong thời gian này. Ví dụ, người Ba Tư du nhập cờ vua từ Ấn Độ và đổi tên của trò chơi này từ chaturanga thành chatrang. Đổi lại, người Ba Tư đã giới thiệu cờ tào cáo vào Ấn Độ.

Trong suốt triều đại Khosrau I, nhiều cuốn sách đã được mang về từ Ấn Độ và dịch ra tiếng Pahlavi, ngôn ngữ của đế chế Sassanid.

Chiến tranh với Ethiopia

Vào năm 522, trước khi Khosrau I lên ngôi, một đạo quân Ethiopia theo Nhất Tính Thuyết đã tấn công lãnh thổ của người Himyarite ở miền Nam Ả Rập. Thủ lĩnh của người Ả Rập tại đây đã đánh lại được cuộc xâm phạm này và cấu cứu triều Sassanid, trong khi đó người Ethiopia Ả Rập địa phương đã có thể chống lại cuộc xâm lược này và kêu gọi người Sassanid cứu viện, trong khi đó thì người Ethiopia cầu viện Đế quốc Đông La Mã. Sau đó, người Ethiopia lại xua quân vượt qua Biển Đỏ và lần này thì họ giết chết được thủ lĩnh của người Ả Rập và đưa một người Ethiopia lên làm thủ lĩnh vùng này thay cho ông ta.[68]

Vào năm 531, Justinianus I yêu cầu người Ethiopia ở Yemen phải loại bỏ người Ba Tư khỏi tuyến thương mại với Ấn Độ bằng cách buôn bán đường biển với người Ấn Độ. Ethiopia không bao giờ đáp ứng đề nghị này bởi vì một vị tướng Ethiopia tên là Abraha đã chiếm đoạt ngai vàng Yemen và tạo ra một quốc gia độc lập.[68] Sau khi Abraha qua đời, một trong những con trai của ông, Ma'd Karib, đã bị lưu đày trong khi người anh em cùng cha khác lên ngôi. Sau khi bị từ chối bởi Justinianus, Ma'd-Karib đã cầu xin sự giúp đỡ từ Khosrau I, ông đã gửi một đội tàu nhỏ và quân đội dưới sự chỉ huy của Vahriz để lật đổ vị vua hiện tại của Yemen. Sau khi chiếm đóng kinh đô Yemen là San'a'l, người con trai của Ma'd Karib, Saif, được đưa lên làm vua.[68]

Rốt cuộc, trách nhiệm cho sự hiện diện ven biển của quân Sassanid ở Yemen thuộc về Justinianus I. Do không hỗ trợ người Ả Rập Yemen, Khosrau I đã có thể trợ giúp Ma'd-Karib và sau này còn biến Yemen thành một thuộc quốc của Đế quốc Sassanid.[69]

Quan hệ với Trung Hoa

Giống như người Parthia trước đây, Đế quốc Sassanid đã tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao với Nhà nước phong kiến Trung Quốc, và đã cử nhiều phái bộ sứ thần tới Trung Quốc. Thư liệu Trung Quốc đã đề cập đến 13 vị sứ thần nhà Sassanid ở Trung Hoa. Thương mại đường bộ và thương mại đường biển với Trung Hoa đều quan trọng cho cả hai đế chế Sassanid và Trung Hoa. Một số lượng lớn tiền xu Ba Tư thời Sassanid đã được tìm thấy ở miền Nam Trung Hoa, khẳng định mối quan hệ thương mại hàng hải.

Trong những dịp khác nhau, các vị vua Sassanid gửi tặng những nhạc sư Ba Tư và các vũ nữ tài năng nhất cho triều đình Trung Hoa tại Lạc Dương dưới triều đại nhà Tấn và triều đại Bắc Ngụy, và tới Trường An trong triều đại nhà Tùynhà Đường. Cả hai đế chế đều hưởng lợi từ thương mại dọc theo Con đường tơ lụa, và chia sẻ lợi ích chung trong việc giữ gìn và bảo vệ tuyến đường thương mại này. Họ hợp tác trong việc bảo vệ các tuyến đường thương mại xuyên qua Trung Á, và cùng xây những tiền đồn trong khu vực biên giới để giữ cho các đoàn lữ hành an toàn khỏi các bộ lạc du mục và kẻ cướp.

Sau khi quân Ả Rập xâm lược Ba Tư, con trai của Yazdegerd IIIPeroz III đã trốn thoát cùng với một vài quý tộc Ba Tư và đã sống lưu vong trong triều đình Trung Hoa. Cả Peroz và con trai ông Narsieh (Tiếng Trung neh-Shie) đã được ban cho những chức quan cao quý tại triều đình Trung Hoa. Ít nhất là trong hai lần, lần cuối cùng có thể vào năm 670, quân đội Trung Hoa đã được phái đi cùng với Peroz để khôi phục lại ngai vàng Sassanid cho ông ta nhưng chỉ đạt được thành công khá khiêm tốn, một lần đã có thể kết thúc với một giai đoạn cai trị ngắn ngủi của Peroz ở Sistan (Sakestan), mà từ đó chúng ta đã được có một vài bằng chứng tiền xu còn sót lại. Narsieh sau này đã đạt được chức vụ chỉ huy trong lực lượng ngự lâm quân Trung Hoa, và con cháu ông sống ở Trung Hoa như là những vị hoàng tử được tôn kính. Người em gái của Hoàng tử Sassanid Peroz II đã được tuyển vào hậu cung, và cho phép những người tị nạn Sassanian đang chạy trốn khỏi cuộc chinh phục của người Ả Rập được định cư tại Trung Quốc.[70] Hoàng đế của Trung Hoa tại thời điểm này là vua Cao Tông nhà Đường.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Sasan http://www.transoxiana.com.ar/0104/sasanians.html http://www.angelfire.com/rnb/bashiri/Sassanian/Sas... http://www.cultureofiran.com/b_history.php http://books.google.com/?id=p7kltwf9yrwC&pg=PA274&... http://books.google.com/books?id=0IU9fduDRIMC&pg=P... http://books.google.com/books?id=883OZBe2sMYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=aQspOf291_cC&pg=P... http://books.google.com/books?id=njwgd7YZHi8C&prin... http://books.google.com/books?id=p7kltwf9yrwC&pg=P... http://www.iranchamber.com/art/articles/art_of_sas...